Suy Niệm Chúa Nhật XXXIV TN C – Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ

568 lượt xem

LỄ CHÚA KI-TÔ VUA

lễ trọng

Bài đọc 1    2 Sm 5,1-3

Họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en.

Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.

1 Hồi đó, toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa : “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài : ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en’.” 3 Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en.

Đáp ca    Tv 121,1-2.4-5 (Đ. x. c.1)

Đ.Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa.

1Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa !”
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
2cửa nội thành, ta đã dừng chân.

Đ.Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa.

4Từng chi tộc, chi tộc của Chúa,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh Chúa, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
5Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít.

Đ.Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa.

Bài đọc 2    Cl 1,12-20

Chúa Cha đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.

12 Thưa anh em, anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.

13 Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái ; 14 trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.

15Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
16vì trong Người, muôn vật được tạo thành
trên trời cùng dưới đất,
hữu hình với vô hình.
Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng
hay là bậc quyền năng thượng giới,
tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ Người và cho Người.
17Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người.
18Người cũng là đầu của thân thể,
nghĩa là đầu của Hội Thánh ;
Người là khởi nguyên,
là trưởng tử
trong số những người từ cõi chết sống lại,
để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.
19Vì Thiên Chúa đã muốn
làm cho tất cả sự viên mãn
hiện diện ở nơi Người,
20cũng như muốn nhờ Người
mà làm cho muôn vật
được hoà giải với mình.
Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá,
Thiên Chúa đã đem lại bình an
cho mọi loài dưới đất
và muôn vật trên trời.

Tung hô Tin Mừng    Mc 11,9.10

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !

Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta.

Ha-lê-lui-a.

Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 23,35-43

35 Khi ấy, Đức Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, dân chúng thì đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo : “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói : “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi !” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết : “Đây là vua người Do-thái.”

39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người : “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” 40 Nhưng tên kia mắng nó : “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su : “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” 43 Và Người nói với anh ta : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”

VƯƠNG QUYỀN CỦA THẬP GIÁ – CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ

Lm. Anmai, CSsR

Lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ là lễ kết thúc năm phụng vụ, như một cao điểm vinh quang để hướng tâm trí và đời sống chúng ta về cùng đích tối hậu của lịch sử cứu độ: Đức Giê-su Ki-tô, Vua của toàn thể vũ trụ, Đấng thống trị trên mọi loài thọ tạo, Đấng là Alpha và Omega, khởi nguyên và tận cùng. Nhưng thay vì trình bày hình ảnh một vị vua vinh hiển, oai phong, mặc áo bào sáng chói, ngự trị giữa đoàn thần thánh tung hô, thì phụng vụ Lời Chúa hôm nay lại đưa chúng ta đến đồi Can-vê, nơi Đức Giê-su Ki-tô, vị Vua đích thực, bị treo trên thập giá giữa những lời chế nhạo, nhục mạ, và bị hành hạ như một kẻ tội đồ hèn hạ nhất. Chính nơi đó, quyền vương đích thực của Người được tỏ lộ cách nghịch lý, sâu sắc và đầy mầu nhiệm.

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca mà chúng ta vừa nghe không mô tả lại sự đau đớn của Chúa Giê-su về thể lý, nhưng tập trung vào cuộc đối thoại diễn ra xung quanh Người trên thập giá. Dân chúng thì đứng nhìn, các thủ lãnh Do Thái thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Những lời ấy không chỉ mang tính xúc phạm, mà còn là một sự thách thức trực tiếp đến căn tính và sứ mạng của Đức Giê-su. Họ không thể chấp nhận rằng Đấng Ki-tô – Đấng được xức dầu, được tuyển chọn – lại có thể chịu đau khổ và chết như một tội nhân. Lính tráng cũng phụ họa, đưa giấm cho Người uống và mỉa mai rằng: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”

Và như để thêm phần cay nghiệt, một trong hai tên gian phi cũng cất tiếng nhục mạ: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Từ mọi phía – dân chúng, thủ lãnh, binh lính, và cả người tử tù – đều dội xuống trên Đức Giê-su một làn sóng chế giễu. Họ không thể hiểu được một vị Vua lại không tự giải cứu mình, lại không dùng quyền phép để thoát khỏi đau khổ, lại không phản kháng hay biện minh. Với họ, vương quyền là sức mạnh, là chiến thắng, là thống trị và tự vệ. Nhưng Đức Giê-su im lặng. Sự im lặng ấy không phải là bất lực, nhưng là ngôn ngữ của tình yêu, của hiến tế, của tự do đón nhận thập giá vì nhân loại. Chính trong sự bất lực bề ngoài, Chúa Giê-su đang thể hiện quyền năng cứu độ cách mạnh mẽ nhất.

Giữa những tiếng chửi rủa và thái độ thờ ơ, chỉ có một người – tên gian phi thứ hai – nhận ra sự thật. Anh ta không xin được cứu khỏi án tử, cũng không nghi ngờ hay chế giễu. Trái lại, anh ta mắng người đồng phạm: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”

Trong lời nói ấy, chúng ta thấy hiện diện một cái nhìn thấu suốt về thân phận mình và một đức tin bất ngờ nhưng vững vàng nơi Đức Giê-su. Và rồi anh thưa với Người: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Một lời cầu nguyện ngắn gọn nhưng sâu xa, một lời tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ: giữa lúc Đức Giê-su đang bị hành hình, không có vinh quang, không ánh hào quang, không binh lính hay ngai vàng, người tử tội ấy lại nhận ra nơi Người có một Vương Quốc, một Vương quyền vượt trên tất cả. Chính trong thời điểm bi đát nhất, Đức Giê-su được tuyên xưng là Vua, không phải bởi một đoàn dân tung hô, mà bởi một kẻ tội lỗi đang hấp hối. Và Đức Giê-su đáp lại bằng một lời đầy quyền năng và lòng thương xót: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Đây là lần duy nhất trong Tin Mừng, Chúa Giê-su dùng từ “Thiên Đàng” và Người hứa ban ngay tức thì, không điều kiện nào khác ngoài đức tin và lòng ăn năn.

Qua đoạn Tin Mừng này, vương quyền của Đức Giê-su được mặc khải cách rõ ràng: đó là quyền năng của lòng thương xót, của tha thứ, của tự hiến và khiêm hạ. Người là Vua không theo kiểu thế gian, không cai trị bằng vũ lực hay bạo quyền, mà bằng tình yêu khiêm nhường. Triều đại của Người không được thiết lập trên ngai vàng, mà trên thập giá. Đó là Vương Quốc không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, nhưng mở ra cho mọi tâm hồn biết nhìn nhận Thiên Chúa trong đau khổ, biết tin tưởng giữa bóng tối, biết ăn năn trong giây phút cuối cùng.

Vị Vua ấy không dùng binh khí để tiêu diệt kẻ thù, nhưng dang tay để ôm lấy cả nhân loại, kể cả những người phản bội, nhục mạ, đóng đinh Người. Trong vương quyền ấy, kẻ cuối cùng có thể trở nên người đầu tiên, tên gian phi cuối đời có thể trở thành thánh nhân đầu tiên bước vào Thiên Đàng. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho mỗi chúng ta, những kẻ đầy yếu đuối, lỗi lầm, nhưng luôn còn cơ hội quay về, nếu biết thưa với Chúa: “Xin nhớ đến con.”

Và trong ánh sáng của chân lý ấy, đời sống của người giáo dân hôm nay được mời gọi trở nên chứng tá sống động cho vương quyền của Đức Ki-tô. Khi tuyên xưng Chúa là Vua, không phải chúng ta chỉ thừa nhận một danh hiệu phụng vụ hay một tín điều lý thuyết, nhưng là dấn thân sống theo đường lối của Người trong mọi chiều kích đời thường. Chúng ta được mời gọi để Chúa thực sự làm Vua trong tâm hồn, trong gia đình, nơi môi trường sống và làm việc, trong mọi chọn lựa và hành vi đạo đức. Làm cho Chúa làm Vua nghĩa là từ bỏ thói quen khép kín, ích kỷ, dửng dưng, để bước vào con đường phục vụ và yêu thương như Chúa.

Khi ta sống trung thực giữa một xã hội đầy giả dối, sống nhân ái trong một thế giới còn nhiều chia rẽ, sống hiền lành thay vì bạo lực, tha thứ thay vì trả thù, thì khi ấy, Vương Quốc của Chúa đang được thiết lập nơi trần gian. Làm cho Chúa làm Vua cũng có nghĩa là dám chấp nhận thập giá hằng ngày với niềm tin tưởng, không than trách, không tuyệt vọng, nhưng kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa để xin ơn cứu độ cho chính mình và cho người khác. Đôi khi, chúng ta phải đối diện với đau khổ, thất bại, hiểu lầm, nhưng chính trong những lúc ấy, nếu biết chiêm ngắm Chúa Giê-su Vua trên thập giá, ta sẽ tìm được ý nghĩa, sức mạnh và niềm hy vọng. Trong đời sống gia đình, để Chúa làm Vua là để Người hướng dẫn mọi tương quan, là yêu thương như Chúa yêu, là tha thứ như Người đã tha thứ cho tên trộm lành, là trung thành với ơn gọi sống chung, dù khi nghèo túng, đau yếu hay thử thách. Trong đời sống xã hội, để Chúa làm Vua là không sống theo chủ nghĩa thành công bằng mọi giá, nhưng dám sống lương thiện, phục vụ tha nhân, sống bác ái với người nghèo, và dấn thân xây dựng công ích. Trong đời sống giáo xứ, để Chúa làm Vua là biết hy sinh thời giờ, công sức vì cộng đoàn, biết cộng tác trong tình huynh đệ, biết tôn trọng nhau, và cùng nhau làm sáng Danh Chúa bằng tinh thần hiệp nhất.

Còn điều quan trọng hơn nữa là trong giây phút cuối đời, khi đối diện với cái chết, ta có thể giống như tên gian phi kia, hướng nhìn lên Thập giá và thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con.” Điều đó không thể có nếu ta không tập luyện điều ấy từ hôm nay: sống trong ơn nghĩa Chúa, ăn năn trở về sau mỗi lần sa ngã, biết cầu nguyện cách khiêm tốn, biết nhận lỗi và hoán cải. Mỗi người chúng ta, dù là ai, dù đang ở đâu, dù quá khứ thế nào, đều có thể bước vào Vương Quốc của Chúa, nếu biết đặt niềm tin vào Người, Đấng không bao giờ khước từ ai kêu cầu danh Người.

Chúa Kitô Vua Vũ Trụ

2 Sm 5,1-3; Cl 1,12-20; Lc 23,35-43

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Khép lại chu kỳ năm C, phụng vụ của ngày đại lễ hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Các bài đọc Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe giúp khám phá ý nghĩa tước hiệu Vua của Chúa Kitô, Nước Chúa Kitô và những điều kiện để vào Nước Chúa.

1. Ý nghĩa tước hiệu Vua của Chúa Kitô

Chúng ta có thể hiểu sai về tước hiệu Vua của Chúa Kitô. Điều này đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu.

Quả thế, trong Tin Mừng, dân chúng và nhiều môn đệ của Đức Giêsu có một quan niệm về Đấng Mêsia theo nghĩa chính trị. Họ chờ đợi một Đấng Mêsia, một vị vua đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ và thống trị của người La Mã. Bởi thế, khi Đức Giêsu xuất hiện như là một người giảng dạy có uy quyền, có khả năng làm nhiều phép lạ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, họ tôn Người lên làm vua.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thẳng thắn khước từ kiểu làm vua theo nghĩa chính trị và trần thế như vậy. Một đàng, Người tự nhận mình là Vua và đến trong thế gian để làm Vua. Nhưng đàng khác, Người xác định rõ tước hiệu Vua của mình theo một kiểu khác. Trong cuộc đối thoại với Philatô, Chúa Giêsu làm rõ điều đó. Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua không?” Chúa Giêsu trả lời:

“Chính ông nói điều đó, tôi là vua” (x. Ga 18,37).

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu, đó là biến cố thập giá. Nếu thập giá là hình phạt ô nhục nhất đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, thì theo cái nhìn thần học của Luca, thập giá là tột đỉnh của tình yêu và nguồn mạch ơn cứu độ. Bởi thế, cả cuộc đời Đức Giêsu hướng về Giêrusalem và nhất quyết đi lên đó. Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá cùng với hai tên gian phi. Một tên chết đến gần cửa cổ mà vẫn còn chế nhạo Người. Còn một tên nhận ra Người là Con Thiên Chúa và là vua; anh ta cầu khẩn Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42).

Đây là lúc Đức Giêsu thể hiện khuôn mặt đích thực của một vị vua uy quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá lời cầu xin. Thay vì hứa một tương lai bất định, Người nói:

“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Như thế, Đức Giêsu trên thập giá thực thi quyền bính của một vị vua của tình yêu. Đúng như bản án được ghi trên thập giá: “Đây là Vua người Do Thái.” Người không chỉ là vua Do Thái mà còn là Vua muôn dân, Vua vũ trụ. Trước đây Đức Giêsu tránh tước hiệu vua kẻo người ta hiểu lầm. Bây giờ, tước hiệu vua xuất hiện trước mắt mọi người một cách rõ ràng nhất. Từ khi Người hiến mình trên thập giá, Người là Vua đích thực cai quản theo cách của mình mà Philatô và những người lãnh đạo Do Thái không thể nào hiểu.

2. Ý nghĩa Nước Chúa Kitô

Vậy nếu Chúa Kitô là Vua, Người làm Vua ở đâu hay ở nơi nào? Khi nói đến Nước Chúa Kitô, chúng ta có thể hình dung về một vị vua cai quản một vùng đất, một quốc gia hay một địa hạt nào đó. Thực ra, Nước Chúa Kitô không được đồng hóa với bất cứ quốc gia hay vương quyền trần thế nào trên thế giới, nó vô hình, người ta không quan sát được. Chính Chúa Giêsu quả quyết với Philatô rằng:

“Nước tôi không thuộc về thế gian này…
Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36).

Nhưng Nước Chúa là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (x. Rm 14,17); Nước Chúa hiện diện trong tâm hồn mỗi người. Và Đức Kitô là vua các tâm hồn con người. Lời cầu nguyện rất ý nghĩa của Kinh Tiền Tụng nhắc nhở chúng ta rằng vương quốc của Người là “một vương quốc vĩnh cửu và vô biên: vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an.”

Trong Nước đó, thập giá là ngai tòa, mão gai là vương miện, lưỡi đòng là vương trượng, áo mặc là long bào, hai cánh tay giang ra là cán cân công lý, lề luật xét xử là tình yêu, sự yếu hèn của thập giá là sức mạnh và quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Vương quốc này không có quyền lực, không có binh đội nào để sử dụng. Ai đứng về sự thật và tình yêu thì thuộc về Nước Chúa.

3. Để thuộc về Nước Trời

Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Đức Kitô là Vua nhân loại; Người giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và cho ta được gia nhập vào Nước Chúa, như lời thánh Phaolô nói ở trong bài đọc II:

“Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi… Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,13-14.20).

Đức Giêsu là Vua dẫn chúng ta vào Nước Trời để hiệp thông với Thiên Chúa và để lãnh nhận ơn cứu độ. Người trộm lành trở thành hình ảnh của hy vọng – sự an ủi chắc chắn, lòng nhân từ của Thiên Chúa có thể đến với chúng ta ngay trong giây phút cuối cùng; dù có lầm lạc hay yếu đuối thế nào, nhưng nếu chúng ta biết hoán cải và cầu xin ơn lòng khoan hậu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện đó sẽ không vô ích.

Từ những ý nghĩa trên, có một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đặt ra trong ngày lễ này là Chúa Kitô có phải là Vua của tâm hồn tôi không? Tôi có nhận biết và tôn thờ Người như là Vua không? Theo thánh Phaolô, có hai cách thế sống: hoặc là sống cho chính mình hoặc là cho Chúa (x. Rm 14,7-9). Sống cho mình nghĩa là khép kín trên chính mình, chỉ lo tìm thỏa mãn và vinh quang cá nhân mà không có hướng nhìn về vĩnh cửu. Ngược lại, sống cho Chúa là hiến mình cho Người, sống theo ý Người, vì vinh quang và Nước Chúa.

Sống cho Thiên Chúa cũng có nghĩa là thực thi lòng bác ái đối với tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo và người đau khổ. Đây cũng là điều kiện để được vào thiên đàng. Bởi lẽ, vào ngày sau hết, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta làm hoặc không làm cho những kẻ bé mọn nhất. Tin Mừng Mátthêu chương 25 nói về tiêu chuẩn của sự phán xét chung: Vị Vua nói

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi… vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).

Như thế, để được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với những người nghèo và những ai gặp đau khổ. Nguyện xin Đức Maria, Nữ Vương trời đất, hướng dẫn chúng ta trên con đường hướng về Nước Trời. Amen!

Suy Niệm Lễ Chúa Kitô Vua

Lm. Petrus Lửa Hồng

Giáo Hội kết thúc năm phụng vụ với Lễ Chúa Kitô Vua để minh định rằng, vũ trụ sẽ đi về cùng đích của nó với vương quyền của Vua Giêsu, Vua muôn vua, Chúa muôn Chúa, và chính Người là chủ của lịch sử, chủ thời gian. Tuy nhiên, bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay lại giới thiệu với chúng ta dung nhan của Vua Giêsu với sự thất bại của một tử tù thập giá, một sự điên rồ đối với dân ngoại và sự ô nhục đối với người Dothai (1Cor 1,18.23), nhưng con đường đi đến và suy phục vương quyền Giêsu, là con đường đặt mình trước mầu nhiệm thập giá để chiêm ngắm: một Giêsu trận trụi, một Giêsu không còn gì, một Giêsu bị thách thức …., và đó là Giêsu của tất cả, của khởi nguồn và cùng đích, dù được giới thiệu với ý hướng lăng mạ, song Người là  “VUA DÂN DO THÁI” (Lc 23,18), là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa”. Bởi thế, Lễ Vua Giêsu hôm nay, chúng ta được mời gọi qui hướng về thập giá để biết sự thật về Thiên Chúa và con người.[1]

Chúa Kitô Vua đăng quang trên đường tình Calverio với vương miện và vành gailong bào là áo xỉ nhụcngai vàng là thập giá.  Đây là thời điểm để suy chiêm Vương Quốc của Vua muôn vua qua THẬP GIÁ. Thập giá, sần sủi bởi đó là bản án cho tử tù trọng tội, sần sùi bởi bất công, bởi sự vu khống, nhạo báng và thách đố, là con đường để tình yêu lên ngôi. Đức Ratzinger viết: Thập giá là mạc khải. Không phải mạc khải về điều gì nhưng là về Thiên Chúa và về con người. Thập giá tỏ cho thấy Thiên Chúa là ài và thế nào là con người.”

Qua thập giá, chúng ta nhận ra “người công chính xuất hiện dưới hình hài của kẻ chịu đóng đinh, bị pháp lý lên án tử, và điều đó cũng vạch rõ khuôn mặt thật của con người là thế nào: hỡi người mi là vậy đó. Mi không thể chịu đựng nổi Người Công Chính, kẻ chỉ biết yêu thương thì mi biến thành đồ diên dại, đánh đập và coi như đồ phế thải.” Thập giá là điểm đến, là số phận cho những kẻ phế thải và những ai bị coi là nguy hiểm cho xã hội. Đức  Vua củ chúng ta bị liệt vào hàng phế thải như thế: bị đóng đinh với những kẻ gian phi, chịu sự xỉ nhục lăng mạ của người đời. “Con người, mi đối xử với Người Công Chính như vậy bởi chính mi mới là người bất chính, người luôn cần thấy đổ lên người khác sự bất chính để tự bào chữa cho mình”. Gioan trong Tin mừng thứ tư đã giới thiệu: Ecce homo – đây là người. Lời này nói với chúng ta, con người là thế. Con người không chân thật đó lại là sự thật về con người. Như thế, người công chính bị đóng đinh trở thành tấm gương trưng ra cho người ta nhìn thấy khuôn mặt trần trụi, không sơn phết của chính mình”: con người luôn tìm cách hạ bệ, xỉ báng, thách thức người khác, thách thức cả quyền năng của Thiên Chúa.

Thập giá không chỉ là sự thật về con người nhưng còn là “mạc khải về Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa là thế đó. Ngài nên một với con người trong tận cùng vực thẳm, Ngài phán xét con người bằng cách cứu vớt họ. và chính trong vực thẳm thất bại của con người mà một vực thẳm còn sâu hơn nữa được tỏ hiện, vực thẳm của Tình Yêu Thiên Chúa”. Một Thiên Chúa “hiền lành và khiêm nhường”, Ngài từ ái và thinh lặng và kiên nhẫn  trước thách thức, nhạo báng của giới lãnh đạo Do Thái, của kẻ trộm cùng chung bản án, của nhân loại chúng ta, Ngài tha thứ cho họ, cho chúng ta dù là lầm hay hữu ý. Ngài lắng nghe tiếng nai xin để được ở với Ngài của tên trộm lành và ban ơn cứu độ cho anh.

Như thế, thập giá là ngai của vương quyền Giêsu, là con đường dẫn tới chiêm ngắm vẻ đẹp của Vương Quốc Tình yêu. “Thập giá là tâm điểm của mạc khải, mạc khải về chính con người chúng ta, vạch trần sự thật của chúng ta trước Thiên Chúa và vạch rõ sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng cuộc sống chúng ta.” Qua thập giá, Đức Giêsu biểu lộ trọn vẹn dung nhan Thiên Chúa xót thương, Thiên Chúa thống trí bằng tình yêu, bằng việc cúi xuống phục vụ ơn cứu độ con người. Thập giá cho chúng ta biết thế nào là yêu, và qua thập giá, Người cho thấy là người Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, là sự viên mãn, là khởi nguyên và tận cùng của mọi loài, mọi sự như Thánh Phaolo trong bài đọc tứ hai khẳng định với chúng ta.

Bài học:

Ý thức ơn gọi công dân Nước Trời. Trong vương quyền ấy, chúng ta không chỉ là con dân, là bề tôi mà còn được nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa (x.Ep 1,5; Gal 4,5), và không chỉ là nghĩa tử mà còn là bạn hữu của Thiên Chúa (Ga 15,15). Hãy sống phẩm giá của công dân Nước Giêsu, những người được đan kết bởi mối dây liên kết tuyệt hảo là đức ái.

Khiêm tốn, chìa khóa để nhận ra vương quyền Giêsu. Chúng ta chỉ có thể nhận ra vương quyền Messia khi chúng ta khiêm tốn. Chính Chúa Giêsu đã xưng tụng Chúa Cha về hồng ân mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn, khiêm hạ, luôn bước đi trước nhan Đức Chúa (x. Mt 11,25-27). Chính người trộm lành đã đạt tới ơn cứu độ khi khiêm tốn nhìn nhận sự công chính và quyền năng của người bạn tử hình Giêsu, và anh đã nài xin ơn cứu độ và được hoan hưởng niềm vui trong Nước của Người.

Cùng thống trị với Vua Giêsu nếu chúng ta cùng chết với Người, cùng đi với Người trên con đường hẹp, con đường tự hủy, con đường phục vụ, chúng ta sẽ đạt tới vương vị trong Đức Kitô, đồng thừa kế với Người.

Lạy Chúa Giêsu là Vua của con, xin hãy chiếm lĩnh mọi sự nơi con, để con thuộc trọn về Chúa và nhờ đó mọi thứ là của con. Xin chiếu giải ánh tôn nhan Chúa vào những vùng tăm tối trong nhân tâm con, để con được bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ trong Nước Chúa. Xin Chúa hãy là Chúa của con để con không nô lệ cho ngẫu tượng, và những ham muốn của con. Ước gì chúng con vui mừng được nghe lời Chúa nói với người trộm lành “hôm nay con ở trên Thiên Đàng với Ta”.  Amen.

Sám Hối Và Ơn Cứu Độ

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Tâm sự của kẻ trộm lành

Tôi sinh ra vốn không mấy tốt lành. Tôi đã chẳng nghe lời căn dặn của các bậc bề trên mà cứ la cà và chơi nhới với bè lũ tội lỗi: trộm cắp từ cái vụn vặt, rồi đến cái lớn ở khắp mọi nơi của nhiều cá nhân và gia đình khác nhau. Tôi rơi vào những cuộc vui vô bổ và hại não với bạn bè cùng lứa tuổi mặc cho những lời khuyên răn, dặn dò ngay cả những trận đòn rất đau của bố mẹ và những người có trách nhiệm. Tôi đã bỏ ngoài tai không muốn nói là sẵn sàng gắt gỏng và cãi lại nếu ai đó nhắc nhở hay dạy bảo tôi. Tôi không thích ai làm chủ tôi cả. Tôi thích sống tự do, ưng làm gì là làm, ưng ngủ là ngủ, ưng chơi là chơi mà không cần phải học hành gì cả. Dù bố mẹ tôi đã đóng tiền học và các khoản thu cho nhà trường rất đầy đủ, nhưng với tôi đó không mấy quan trọng. Tôi chỉ thích sống thoải mái và chơi bời thôi. Đối với tôi: học mà không chơi phí hoài tuổi trẻ, nên tôi chỉ chủ trọng việc chơi nhởi. Vì chơi nhởi và dính vào các tệ nạn hút chích, nên tôi bị cuốn hút vào đồng tiền. Làm sao có tiền đây? Tiền đâu là đầu tiên? Trong lúc túng quấn, tôi đã liều mình cùng đồng bạn xấu tổ chức các vụ chôm chỉa, giật đồ và ăn trộm đồ lề của người khác.

Các bạn thân mến,

Tôi thú thật với mọi người rằng tôi đã phạm đủ thứ tội. Tôi đã nhuốm máu đủ thứ. Tội tôi thật to lớn. Và quả thật, như các bạn đã biết “đi đêm nhiều ắt sẽ gặp ma”, tôi đã bị bắt trong một vụ trộm cắp – và lỡ tay giết người và theo luật thì tôi phải bị đóng đinh trên cây thập giá. Đúng vậy, tôi và một người bạn của tôi đã bị đóng đinh trên núi cao. Cái lạ hôm nay là cùng chịu đóng đinh với chúng tôi có Ông Giê-su, một người được mọi người dân kính trọng.

Các bạn biết không?

Ông Giê-su mà tôi vừa nhắc trên là một con người rất tốt và yêu thương mọi người, nhất là những người tội lỗi, nghèo đói. Tôi được biết về Ông Giê-su đi tới đâu là Ổng thi ân giáng phúc tới đó. Ông làm cho kẻ điếc nghe được, làm cho người câm nói được, kẻ mù loà được sáng mắt, kẻ què quặt chạy đi được, kẻ bại liệt được đứng thẳng và sinh hoạt lại bình thường, kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa, ngay cả kẻ chết được ông cho sống lại. Tôi cũng nghe nói Ông Giê-su đã hay tuyên bố rằng: “Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. (Lc 19,10). Nơi khác, Ông Giê-su cũng đã nói: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi.”(Mc 2,17). Ông Giê-su xuất phát từ Thiên Chúa tình yêu, nên Ông cũng sống trong tình yêu.

Hôm nay, cùng chịu đóng đinh với ông, tôi chứng kiến nhiều thành phần khác nhau nhục mạ Ông Giê-su cách trắng trợn. Có khi ngay cả những người được Ông cứu và giảng dạy nay lại trở mặt để lên án và chọc tức Ông. Từ trên thập giá tôi quan sát và lắng nghe: “dân chúng thì đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!”. (cc. 35-37). Ngay cả người bạn cùng chịu án phạt đóng đinh với tôi cũng đã nhục mạ Ông Giê-su: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !” (c.39). Tại sao Ông Giê-su không tự cứu mình nhỉ? Ông Giêsu đã không muốn tự cứu mình dù Ngài đã nghe ba lần lời thách thức ấy (Lc 23,35.37.39). Phải chăng Ông vâng phục ý của Chúa Cha là Đấng muốn Ngài chịu chết để cứu chuộc muôn người.

Lúc đó, tôi không chịu được lời nhục mạ của ‘thằng bạn xấu’ đó đối với ông Giê-su nên tôi đã không ngần ngại nói với nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”(cc.40-41).

Các bạn ạ, lúc đó tôi thấy tội nghiệp Ông Giê-su quá. Như chúng tôi chịu đóng đinh là thật xứng đáng với tội của chúng tôi, nhưng Ông ấy có tội tình gì đâu. Ông làm ơn mà lại mắc oán là có thật. Tôi thấy Ông quả thật hiền lành, khiêm nhường và không một lời đáp thưa. Đáng lý ra Ông là một người kiệt xuất, là Con Thiên Chúa nữa chứ, nên Ông có thể làm được mọi sự cơ mà, nhưng không, Ông đã chịu đựng tất cả và hy sinh tất cả để chết thay cho mọi người. Tôi cam đoan rằng Ông Giê-su vô tội. Dù thằng bạn của tôi không kính sợ Ông Giê-su, là Thiên Chúa, nhưng tôi, tôi kính nể và kính sợ Ngài lắm.

Nhìn sang Ông Giê-su, tôi thương và rất cảm phục tinh thần tự huỷ của Ngài. Tôi tin Ông sẽ chiến thắng tất cả, nên tôi không ngần ngại để nói với Ông: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (c.42). Các bạn biết không? Tôi đã xác tín lắm mới dám thốt lên như vậy đó. Tôi tin rằng Nước của Ông Giê-su sẽ là nơi bình an và hạnh phúc, là nơi mọi người sẽ được hưởng trọn niềm vui vĩnh cửu. Chính Ông Giê-su mới xứng đáng làm Vua của Nước đó, nên tôi mong được làm quân dân của Ngài. Tôi nhận ra Ông Giê-su đúng là Vua ngang qua thái độ tha thứ của Đức Giêsu trước kẻ thù, và thái độ bình an trước đau khổ. Các bạn thân mến, sở dĩ tôi mong ước Ông Giê-su ‘nhớ đến tôi’, là vì tôi tin rằng Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời minh ước và lời hứa (Lc 1,54.72). Quả thật, khi Thiên Chúa nhớ một người, Ngài sẽ thi ân cho người đó (Cv 10,31; Tv 106,4).

Thật ngạc nhiên cho tôi mọi người ạ, Ông Giêsu không chỉ nhớ đến tôi khi Ngài vào Nước của Ngài, mà còn cho tôi ở với Ngài ngay hôm nay, khi Ngài nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (c.43). Một món quà thật giá trị và tuyệt hảo mà tôi đã vinh dự được Ông Giê-su thưởng ban. Tôi thiết nghĩ, là con người không ai mà không có tội, có lỗi với Chúa và với tha nhân. Điều quan trọng là chúng ta nên khiêm tốn nhận ra cái giới hạn của con người, của lòng mình để tựa nép bên Lòng Thương Xót và sự Tha Thứ của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ duy nhất. Quả thật, tôi thật sự hạnh phúc vì dù tôi là kẻ đầu trộm đuôi cướp, là kẻ đáng bị nguyền rủa và đáng bị giết chết bởi bao tội ác tày trời của tôi, nhưng Đức Giê-su, Vua muôn vua, Chúa các chúa đã bao dung, rộng lượng và thứ tha hết mọi tội lỗi cho tôi để tôi được hưởng hạnh phúc thiên đàng ngay hôm nay với Ngài. Thật vậy, Đức Giê-su thật sự xứng đáng là Đấng, là Vua vũ trụ, Vua Tình Yêu, Vua Thương Xót, là Vua đến trần gian để cho mọi người được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,10). Chúng ta hãy mau chạy đến để đón nhận sự dẫn dắt và cứu độ của Ngài hơn là sống kiêu căng, chai đá và tội lỗi ngập tràn.

 

Nguồn: dcvphanxicoxavie.com

Có thể bạn quan tâm