Suy Niệm Chúa Nhật II Mùa Vọng A – Tiếng Hô Bừng Tỉnh Lương Tri

61 lượt xem

 

TIẾNG HÔ BỪNG TỈNH LƯƠNG TRI

Mùa Vọng là con đường tất yếu dẫn vào mầu nhiệm Giáng Sinh. Không ai có thể thực sự đón mừng biến cố Ngôi Lời Nhập Thể mà không bước qua hành trình trông đợi, thanh luyện và hoán cải của Mùa Vọng. Cũng như vậy, không ai có thể hân hoan gặp lại Đức Kitô trong ngày phán xét sau cùng nếu không kinh qua “mùa vọng” của chính cuộc đời mình. Dọc theo hành trình thiêng thánh này, Giáo Hội không ngừng gửi đến chúng ta những lời thức tỉnh để biến đổi đời sống.

Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm nay phác hoạ dung mạo Gioan Tẩy Giả – vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo từ nhiều thế thế kỷ trước. Lời hiệu triệu của Gioan vang lên đầy cấp bách, không chỉ đối với người Do Thái thời xưa, nhưng còn cho cả nhân loại hôm nay, bởi vì ơn cứu độ đã đến giữa trần gian, nhưng bao người không nhận ra – thậm chí cố tình không nhận ra. Chính vì thế, cần phải có một cuộc hoán cải triệt để, một sự chuẩn bị từ tận căn lòng mình để đón chờ ngày hồng phúc Chúa dành cho mỗi người.

  1. Hoang địa – không chỉ là nơi chốn, mà là biểu tượng thần học

Chân dung Gioan hiện lên gắn liền với “tiếng hô trong hoang địa”. Hoang địa, theo nghĩa địa lý, là nơi khô cằn, khắc nghiệt, dường như không phải chốn dành cho sự sống – huống chi cho con người. Thế nhưng Kinh Thánh lại kể: Gioan rút vào hoang địa, sống bằng châu chấu và mật ong rừng, rồi từ chính nơi ấy, ông khởi đầu sứ vụ rao giảng.

Hoang địa ở đây không đơn thuần là thông tin địa dư, nhưng là biểu tượng thần học sâu sắc: Hoang địa là nơi Thiên Chúa nói, và con người lắng nghe. Hoang địa là nôi của những ơn gọi và những cuộc gặp gỡ định mệnh.

Những lời nói của Gioan chất chứa “sự thật”, “chân lý” và “ơn cứu rỗi” như một lực hút vô hình mãnh liệt. Tiếng hô trong hoang địa không có loa phóng thanh, không có sự hỗ trợ kỹ thuật, nhưng lại vang xa và thấu đến tận tâm can mọi người dân miền Giu-đê, khiến họ tuôn đến bên bờ sông Gio-đan để nghe ông giảng và xin được thanh tẩy.

Gioan thực hiện nghi thức rửa bằng nước như một dấu chỉ tỏ lòng sám hối. Phép rửa của ông không tha tội như bí tích Rửa Tội được Đức Giêsu thiết lập sau này, nhưng là một lời mời gọi cấp bách: hãy chuẩn bị tâm hồn để đón lấy Đấng Mêsia. Ông không bao giờ lầm lẫn mình với Đấng Cứu Thế; trái lại, ông chỉ vào Đấng sẽ đến sau mình như ánh sáng thật, như lửa thiêng thanh luyện và thánh hoá. Gioan là hình ảnh của một vị ngôn sứ tận tâm với sứ mạng, khiêm nhu nhìn nhận căn tính của mình, khắc khổ giữ kỷ luật bản thân và cương nghị răn dạy người khác.

  1. Gioan – ánh sáng phơi bày sự dữ và tiếng nói hiệu triệu công chính

Dân chúng nhìn nhận Gioan là ngôn sứ, bởi ông phơi bày bóng tối, lay tỉnh lương tâm, và mở ra một lối thoát thiêng liêng cho con người thời đại mình. Sứ điệp cốt lõi mà Gioan loan báo là:
“Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”

Ông mạnh mẽ tố cáo mọi hình thức tội lỗi và giả hình, đặc biệt nơi những người Pharisêu và Sađốc – giới tinh hoa tôn giáo. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, một hình ảnh sắc bén, bởi trong Kinh Thánh, rắn tượng trưng cho gian trá và lừa lọc. Cứ như một thầy thuốc chạm đúng vào huyệt sâu của bệnh nhân: càng nhấn càng đau, nhưng người ta lại càng muốn người bấm huyệt tiếp tục nhấn sâu thêm. Lời của Gioan thật đau và thật xoáy, nhưng người ta vẫn muốn nghe, bởi họ nhận ra nơi ông một tiếng nói chân thật như phương dược chữa lành những thương tích do tội lỗi gây ra và có thể cho họ tìm thấy một tinh thần vững mạnh và một tâm hồn bình an.

Sám hối, theo Gioan, không phải chỉ là hối tiếc đôi ba lỗi nhỏ, càng không phải là ngồi bất động để than khóc, nhưng là thay đổi đời sống từ gốc rễ, và được chứng minh bằng những việc bác ái cụ thể. Đây là cuộc trở về mang tính khẩn thiết, bởi vì:

“Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.”

Trong cái nhìn của Gioan, Đấng Cứu Thế đồng thời là vị Thẩm Phán Cánh Chung, Đấng công minh sàng lọc nhân loại như người nông dân rê sảy lúa để giữ lại hạt mẩy và loại bỏ thóc lép. Dù giọng điệu của Gioan có vẻ nghiêm khắc, nhưng đó là sự thật sẽ xảy ra trong ngày sau hết. Lòng Thương Xót của Thiên Chúa có thể đợi chờ con người, nhưng không phải là không có sự phán xét công thẳng cho những ai làm điều sai trái.

III. Tiếng hô trong hoang địa và tiếng hô giữa thế giới hôm nay

Xã hội chúng ta đang sống dường như chứng kiến một sự xói mòn về luân lý và thờ ơ tôn giáo. Hơn bao giờ hết, Kitô hữu được mời gọi trở nên những “ngôn sứ của Chúa”, can đảm lên tiếng trước tội lỗi và bất công, để kéo con người trở về với nguồn thiện.

Gioan đã trở thành ứng nghiệm sống động của lời Isaia. Cũng vậy, đời sống chúng ta được mời gọi để trở thành lời Kinh Thánh đang tiếp tục được viết. Gioan đã là tiếng hô trong hoang địa; chúng ta cũng có thể trở thành tiếng hô của hy vọng, của công lý, của sự thật cho những người chung quanh.

Ngay hôm nay, trong giây phút này, chúng ta có thể quyết định vận mệnh vĩnh cửu của mình. Chúng ta có sẵn sàng để Đấng Thẩm Phán “rê sảy” đời mình vào bất cứ lúc nào? Chúng ta sẽ là hạt lúa mẩy được Người cất vào kho lẫm Thiên Đàng, hay trở thành thóc lép bị đốt đi?

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả năm xưa thật uy lực,
vì được vang lên từ bầu trời thanh khiết của sa mạc,
vì được nuôi dưỡng bằng lương thực là Lời Hằng Sống.

Hôm nay, giữa Giáo Hội tràn đầy ân sủng,
chúng con lại dễ dàng câm nín và điếc lác
trước lời mời gọi lên đường của Chúa
và trước nhu cầu đức tin của anh chị em mình.

Xin cho chúng con biết tận dụng thời gian Mùa Vọng
để trở thành một “tiếng hô có ích” giữa đời:
dám nói thẳng – nói thật – nói điều thiện,
dám xây dựng, cảm thông, nâng đỡ,
và hăng hái chia sẻ Lời Chúa cho mọi người.

Nếu mỗi chúng con trở thành một tiếng hô cho nhau,
thì bóng tối sẽ lùi xa,
và thế giới này sẽ tràn ngập
ánh sáng và hạnh phúc của Thiên Đàng.
Amen.

Maria Fiat Diệu Huyền, MTG Vinh

Bình An Đích Thực

Is 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12

Chúng ta nghe lại những lời sau đây từ các bài đọc Lời Chúa:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau” (Is 11,6).

“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc” (Is 2,4).

“Thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 71,7).

Nếu Lời Chúa mà chúng ta suy niệm làm cho chúng ta rơi vào khủng hoảng nội tâm, thì đó là dấu chỉ của sự tác động của Lời đó trên chúng ta. Khi so sánh với những cảnh tượng mà chúng ta chứng kiến trong cuộc sống hằng ngày, trên tivi và mặt báo, những lời này xem ra như một điều mỉa mai cay đắng, xa rời thực tiễn. Bình an ở đâu? Thánh lễ kết thúc, nhưng đâu thấy cảnh thái bình thịnh trị xuất hiện? Ngược lại, thế giới tiếp tục với các cuộc chiến tranh. Chiến tranh và rồi một lần nữa tiếp tục chiến tranh: chiến tranh thế giới hay quốc gia, địa phương hay các sắc tộc, chiến tranh bên ngoài hay chiến tranh “dân sự.” Quả thế, thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu, xương chất thành núi, máu đổ thành sông. Đất nước chúng ta cũng đã trải qua những kinh nghiệm đau thương như thế.

Trong một bài thơ của mình, Charles Péguy trình bày cho chúng ta nhân vật Jean d’Arc trong thời chiến “một trăm năm” giữa Pháp và Anh, sau khi đã đọc Kinh Lạy Cha, ông chú giải một cách chua xót: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, sao nước Cha lại không đến! Sao ý Cha lại không được thực hiện! Sao chúng con hôm nay không có lương thực hằng ngày!” Chúng ta có thể thêm: “Sao cảnh thái bình thịnh trị của Chúa vẫn mãi xa vời.”

Thánh lễ xong, nhưng sao người ta không đúc gươm đao thành lưỡi cày, cũng không biến giáo mác nên liềm nên hái. Hay đúng hơn, sao hôm nay người ta không biến súng đạn thành đồ chơi trẻ em và tên lửa thành những máy bay miễn phí. Đây là lý do mà người Do Thái không tin vào Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Bởi vì họ không thấy Người thực hiện những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế. Họ giải thích lời hứa về một nền thái bình đó theo nghĩa đen và chính trị.

Chúng ta có thể nói gì về vấn đề này? Trước hết, chúng ta cần tránh cảm tưởng rằng chúng ta có câu trả lời ngay lập tức và dễ dàng cho vấn đề này theo cái nhìn đức tin. Cả những vấn đề khác giống như vấn đề này.

Chúng ta cần khởi đi từ Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên thần ca hát:

“Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

Đây không phải là một lời chúc, một lời nguyện cầu, nhưng là một sự kiện, một sự hiện hữu xuất hiện. Bình an đã đến trên trái đất. Nhưng thứ bình an này rất khác, rất mới. Như có lần Chúa Giêsu giải thích:

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).

Từ những lời này, chúng ta có thể diễn giải thế này: bình an không có nghĩa là vắng bóng chiến tranh, hoặc là cân bằng lực lượng đối lập, như điều người ta gọi trong những thập niên gần đây, đó là “chiến tranh lạnh.”

Nhưng trước hết, bình an là sự hòa điệu, sự viên mãn, sự an toàn của cuộc sống. Kinh Thánh gọi đó là “hoa quả của công lý.” Theo nghĩa này, thánh Augustinô định nghĩa: “Bình an là bình thản trong trật tự của mình,” nghĩa là giữ đúng trật tự giữa chúng ta với Thiên Chúa, giữa chúng ta với tha nhân, giữa các giai cấp xã hội, giữa lý trí và bản năng trong mỗi người chúng ta. Kinh Thánh định nghĩa: Bình an là “hoa trái của Thánh Thần.” Hay bình an là chính Chúa Kitô, như thánh Phaolô quả quyết:

“Người là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14).

Trong từ bình an có điều gì đó vô biên hơn những gì mà con người suy tưởng. Bình an là “sự viên mãn và là chóp đỉnh của sự thiện hảo cứu độ,” mà chúng ta khao khát, tin tưởng và tìm kiếm. Nếu chúng ta hỏi dân chúng: “Bạn tìm kiếm cái gì nhất trong cuộc sống?” Tôi chắc chắn rằng nhiều người sẽ trả lời: “Tôi tìm kiếm sự bình an.”

Vậy, tại sao Chúa Giêsu nói:

“Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27)?

Thế gian ban bình an như thế nào? Ở Tiểu Á người ta tìm thấy một tấm bia mộ, trên đó hoàng đế Augustô khắc ghi những công trình của mình, nhất là về ‘Pax Romana’ (nền hòa bình La Mã) do ông thiết lập trên thế giới. Ông cho rằng nền hòa bình này có được là nhờ ‘Victoriis Pax’, nghĩa là nền hòa bình này có được nhờ những chiến tích lừng danh. Như vậy, trong nền hòa bình này, cũng như trong tất cả các công trình con người, có những người thất bại và những người chiến thắng. Cả Chúa Giêsu đã chinh phục nền hòa bình cho chúng ta với một chiến thắng, nhưng chiến thắng nào? Câu trả lời là chiến thắng thập giá, như thánh Phaolô quả quyết:

“Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,16-17).

Người đã tiêu diệt mọi sự thù địch, chứ không phải là địch thù, Người đã tiêu diệt sự thù địch nơi chính mình, chứ không phải nơi người khác; nhờ sự tự hủy chính mình, chứ không phải hủy diệt người khác. Trên thập giá, Đức Giêsu là người “chiến thắng vì là nạn nhân” (victor quia victima). Bình an quả thực đã được ban cách dồi dào nhờ Người và không thể tính được có bao nhiêu người có kinh nghiệm về sự “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,7). Họ sẵn sàng làm chứng cho chân lý qua câu nói nổi tiếng của văn hào Dante Alighieri: “Sống theo ý muốn của Người, chúng ta có bình an.”

Điều mà tiên tri Isaia loan báo đã được ứng nghiệm, nhưng ở trên cấp độ cao cả, theo nghĩa tinh thần và hoàn vũ. Không phải dành riêng cho một dân tộc nào, nhưng là cho mọi dân tộc. Khởi đi từ Chúa Giêsu, hòa bình không chỉ là ước mơ, nhưng là thực tại đã thực hiện, ít ra là “khả thể” đích thực ban tặng cho tất cả “mọi người thiện tâm.” Bình an của Chúa Giêsu là thứ bình an mà thế gian không thể ban, cũng như không thể xóa bỏ được.

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng trái tim là trung tâm lưu giữ và lan tỏa sự bình an ra bên ngoài. Trái tim là nguồn gốc phát xuất sự bình an hoặc sự bất an.

“Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? (Gc 4,1).

Chúng ta nhận thấy rằng, tất cả các cuộc chiến tranh đều phát xuất từ lòng người, thường từ lòng của những người có quyền lực. Lòng người thực sự là “ổ chiến tranh.” Hàng triệu giọt nước bẩn sẽ làm cho đại dương không sạch; cũng vậy, hàng triệu người không có bình an trong tâm hồn, sẽ làm cho nhân loại bất an. Bình an hệ tại nơi lòng người.

Tuy nhiên chúng ta đừng ảo tưởng khi nghĩ rằng ở trần gian này sẽ có sự bình an trọn vẹn. Không phải thế. Sự bình an hoàn toàn và trọn vẹn chỉ có thể đạt được trong ngày cánh chung, nghĩa là vào thời sau hết. Chúng ta chỉ có bình an thực sự khi mọi sự được hoàn tất, “chúng ta mong đợi trời mới và đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị” (2 Pr 3,13).

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một phương thế để đạt được bình an: “Anh em hãy sám hối!” Anh em hãy làm những dấu chỉ sám hối.

Cần phải có sự thay đổi tận căn của con tim. Hãy hoán cải để có bình an. Bình an đích thực mà chúng ta có được, vâng, nhờ những “chiến thắng” như Cesare Augustô nói, nhưng là chiến thắng chính mình, chứ không phải chiến thắng người khác.

Tôi không thể làm cho mọi nơi trên thế giới và những nơi đang có chiến tranh được bình an, nhưng tôi có thể mang bình an đến trong gia đình tôi. Tôi không thể mang bình an đến các bộ tộc đang xung đột ở Châu Phi, nhưng tôi có thể mang bình an cho những người anh em tôi, cho vợ, chồng, con cái, bạn bè, người đồng nghiệp, cho những người xung quanh…

Thật đẹp thay khi chúng ta làm những nghĩa cử hòa bình và hòa giải! Chúa Giêsu nói rằng:

“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Tại sao chúng ta không bắt đầu biến gươm giáo nên liềm nên hái ngay lúc này? Nghĩa là biến những lời nói cứng cỏi, khó nghe, thành những lời nói cảm thông, tha thứ; biến những bàn tay đóng kín và gây gỗ thành những cánh tay mở rộng để hòa giải và yêu thương? Chúng ta đã quá nhiều đau khổ: chúng ta có cần phải làm cho cuộc sống của mình và người khác ra nặng nề hơn không? “Hỡi con người, bình an! Trên mặt đất quá nhiều huyền nhiệm!” Đó là một trong những câu đẹp nhất của triết gia Blaise Pascal. Bình an phụ thuộc nơi tôi và nơi mỗi người. Nếu chúng ta thực hiện những điều đó, thì lời tiên báo trên sẽ được hiện thực:

“Thái bình thịnh trị tới ngày nào tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 71,7).

Chúng ta kết thúc với lời cầu nguyện được cho là của thánh Phanxicô:

“Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp.”

Vâng, lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Dọn Lòng

(Is 11,1-10; Tv 71, Rm 15,4-9; Mt 3,1-12)

Mùa vọng đặt chúng ta trên hành trình hướng về thời bình sinh trong Nước của Đức Kitô – Nhà Đức Chúa. Đó là thời mà Isaia trong bài đọc thứ nhất và Thánh vịnh 71 tiên kiến về vương quyền của Đấng được xức Dầu Thánh Thần để đem lại: sự giải thoát cho con người, khải thị cho người mù, quyền lợi người nghèo được bệnh đỡ, người yếu thế trong xã hội được phân xử công minh. Chính Đấng Messiah sẽ lấy đức công chính là dây thắt lưng và sự tín trung làm đai. Trong triều đại của Người, muôn thọ sinh sẽ đạt tới sự hoà hợp viên mãn, tình trạng của buổi nguyên sinh trong địa đàng. Thời bình sinh trên Núi Thánh của Đức Chúa, là thời mà sự công chính và nền hoà bình viên mãn triển nở. Để hướng tới thời bình sinh này, chúng ta cần:

  1. Sửa lối, dọn lòng

Thời đại Messiah đang tới gần, nhưng để nhận biết và đi vào để hoan hưởng thời bình sinh, chúng ta cần dọn đường, sửa lối. Lấy lại lời ngôn sứ Isaia và Baruc, Gioan đã kêu mời dân chúng đi từ sa mạc lòng mình đến sa mạc của nhân thế; đón Chúa trong thâm cung lòng mình để trở nên nhịp cầu dẫn Chúa tới với người khác; ngôn sứ, tiếng vọng cho lòng mình để trở nên ngôn sứ đánh thức nhân thế. Muốn vậy phải:

Vào “trong hoang địa”. Hoang địa nào đây? Có thể là hoang địa Giudea, nhưng trước hết là hoang địa – “cõi lòng – nhân tâm”Tiếng hô trong hoang địa dọn đường của sứ giả Messiah là tiếng kêu của cõi long, lời mời gọi sám hối, canh tân của việc sửa lối dọn lòng, “vì Nước Trời đã đến gần”.

“Hãy dọn sẵn một con đường cho Chúa”: chỉ khi đi vào hoang địa cõi lòng để nghe tiếng gọi mời, chúng ta mới nhận ra đâu là những chướng ngại; chỉ khi đi vào cuộc chay tịnh, hành trình sa mạc cõi lòng để sửa sang, tu chỉnh, uốn nắn, hầu có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên ChúaVào tận thâm căn nhân tâm, bước xuống lòng mình và hãy hô lớn tiếng cho chính mình nhằm:

–         “Sửa” cho ngay thẳng những ý nghĩ quanh co, xiên xẹo, thiện cẩn, những quyến luyến thế tục, để có thế tiến bước trên con đường đoan chính;

–         “Lấp đầy” những thung lũng, những hố sâu ngăn cách: không phải ngăn cách vì những vực thẳm hay đường xa vạn dặm, nhưng là những trở ngại bên trong lòng người: hận thù, ghen tị, thiếu tình liên đới. Những trở ngại, ngăn cách đã khiến những người gần nhau, thậm chí anh chị em với nhau, cùng chung lý tưởng đời tu, nhưng xa nhau vạn dặm. Ngăn cách bởi tội lỗi, bởi ái kỷ;

–         “Bạt” cho bằng những gồ ghề của tính kiêu căng, tự phụ. Đây là chướng ngại, là cản trở lớn nhất che lấp làm cho người ta không nhận ra vinh quang Thiên Chúa và anh chị em mình.

Chúa mời gọi chúng ta hãy là tiếng gọi cho mình, và đồng thời là tiếng vọng gọi mời người khác, giúp họ thực hiện cuộc hoái cải, sửa lối, dọn lòng cho việc đón ChúaChính đời sống chay tịnh, sám hối của Vị tiên hô Đấng Cứu Thế đã thức tỉnh nhân tâm của những người thời đại ông. Tin mừng trình thuật: “Người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giudêa, cùng khắp vùng ven sông Giordan, cả những người Pharisêu và Xađốc, kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giordan” (cc. 5.6).

Đời sống chúng ta phải trở nên tiếng gọi đánh thức, lời loan báo dọn đường cho Chúa đến trong cuộc sống chúng ta, cho người khác, cho môi trường sống của chúng ta. Đây là ơn gọi và sứ vụ sống còn.

  1. Chúa chúng ta đang kiên nhận đón đợi

Nếu như tiếng vọng sám hối như là lời thúc bách dục giã chúng ta trỗi dậy và lên đường tiến về Núi Thánh Đức Chúa, thì Mùa vọng còn là thời gian để chúng ta khám phá khuôn mặt Thiên Chúa trung tín đang kiên nhận đón đợi chúng ta đến với Người. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai nhắn gửi chúng ta: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh thánh, đều được chép dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15,4). Quả thực, chính Chúa là “nguồn kiên nhân” và “an ủi” của chúng ta. Người đang đón đợi chúng ta sám hối để sinh hoa trái. Ân sủng của Người giúp chúng ta thực hiện cuộc cải biến con người cũ của chúng ta để có thể đơm bông kết trái theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa.

Việc đặt mình bước vào con đường sám hối, canh tân đời sống, chúng ta sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa là Đấng “luôn làm nên những sự ngạc nhiên”. Sự ngạc nhiên lớn lao trong hành trình tìm gặp Chúa của chúng ta hệ tại ở chỗ, không phải chúng ta khởi đầu cho cuộc hạnh ngộ này, mà chính Người đã thực hiện bước lên đường trước trong cuộc gặp gỡ với chúng ta. Bởi vậy, âm vang Lời Chúa Mùa vọng là lời hiệu triệu lên đường để gặp Chúa, để vào Nước Trời. Đó là điều quan trọng nhất. Phải đặt mình trong động thái lên đường, tiến về phía trước chứ không thể dựng lại, không thể ngưng đọng với cái hiện tại, nhất là những cái cố hữu đang núi kéo chúng ta.

Nếu chúng ta không biết máu mắn lên đường để gặp Đấng đang đón đợi chúng ta, chúng ta sẽ đánh mất cơ hội, sẽ bị loại ra ngoài cuộc vui của con cái Chúa như thể cây vả và lúa dẹp bị đẩy vào lò lửa chịu thiếu đốt, tàn lụi.

Rabbouni 89

Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
nếp nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến
.

Lm. Petrus Lửa Hồng

Nguồn: dcvphanxicoxavie.com

—————————–

Có thể bạn quan tâm