Đức hồng y Fernández: chúc lành cho các đôi đồng tính ‘không chuẩn nhận hay biện chính cho cái gì hết’

2667 lượt xem

Cardinal Víctor Manuel Fernández, prefect of the Dicastery for the Doctrine of the Faith, pictured Sept. 30, 2023. © Mazur/cbcew.org.uk.

GPHT (01.01.2023) – Báo điện tử Công giáo The Pillar ngày 23/12/2023 đăng cuộc phỏng vấn sau đây với đức hồng y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng bộ Giáo lí Đức tin, trên địa chỉ web: https://www.pillarcatholic.com/p/cardinal-fernandez-same-sex-blessing.

Các nhà lãnh đạo Giáo hội đã bị cuốn vào cuộc tranh luận gay gắt trong tuần này, sau khi Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican công bố hôm thứ Hai tuyên ngôn Fiducia supplicans, tuyên bố đưa ra một khuôn khổ cho việc giáo sĩ ban phép lành cho các cặp đồng giới và những người sống quan hệ ngoài hôn nhân.

Một số hội đồng giám mục và giáo phận, vốn đã bật đèn xanh cho những phép lành như vậy, đặc biệt là ở Bỉ và Đức, thấy trong tài liệu này sự xác nhận cách tiếp cận của họ đối với vấn đề này, họ hứa hẹn sẽ còn đưa ra các hướng dẫn về các phép lành phụng vụ cho các cặp đồng giới – một bước đi bị cấm bởi tuyên ngôn của Bộ Giáo lí đức tin.

Nhưng một số hội đồng giám mục ở Châu Phi và Châu Á đã bác bỏ tài liệu này, với một số lệnh cấm thực hiện các lời khẩn cầu Fiducia trong lãnh thổ của họ. Một hồng y đã thách thức tính chính thống giáo lí của tài liệu, trong khi người đứng đầu Giáo hội Công giáo Hi-Lạp Ukraine cho biết văn bản này không áp dụng cho giáo đoàn của ông.

Giữa một tuần đầy thử thách đối với Giáo hội, The Pillar, một báo điện tử Công giáo, đã liên lạc với Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lí Đức tin, để đặt câu hỏi về tài liệu và những phản ứng mà nó đã tạo ra.

Cuộc phỏng vấn này được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha, qua email và được The Pillar dịch.

1. Thưa Đức Hồng Y Fernandez, Fiducia supplicans nói rằng ‘vẫn giữ vững giáo lí truyền thống của Giáo hội về hôn nhân, không cho phép bất kì loại nghi thức phụng vụ hoặc phép lành nào tương tự như nghi thức phụng vụ có thể tạo ra sự nhầm lẫn.’

Tuyên ngôn nói rằng các phép lành đang nói tới ‘không nên được ấn định theo nghi thức bởi các thẩm quyền của giáo hội để tránh tạo ra sự nhầm lẫn với phép lành riêng của bí tích hôn nhân’, và rằng ‘những phép lành không-nghi-thức này chỉ là những cử chỉ đơn giản cho chúng ta một phương tiện hữu hiệu, làm gia tăng tin tưởng vào Thiên Chúa nơi những người cầu xin chúng, phải cẩn thận để chúng không trở thành một hành vi phụng vụ hoặc bán phụng vụ, tương tự như một bí tích.’

Nhưng nhiều hội đồng giám mục khác nhau đã phê chuẩn các nghi thức chúc lành cho các cặp sống đời vợ chồng trong những hoàn cảnh trái luật. Điều đó có mâu thuẫn với tuyên ngôn này hay không?

Tuyên ngôn nói rất rõ ràng cần phân biệt hai hình thức chúc lành: một hình thức theo nghi thức phụng vụ và hình thức kia là việc mục vụ – và đây là sự đóng góp đặc biệt của tuyên ngôn này.

Một số giám mục đã đi quá xa trong các hình thái nghi thức chúc lành cho các cặp bất qui tắc,  điều này là không thể chấp nhận được. Họ nên điều chỉnh lại đề xuất của mình về vấn đề đó.

2. Fiducia supplicans nói rằng: ‘Trong một lời cầu nguyện ngắn trước phép lành tự phát này, thừa tác viên thánh chức có thể cầu xin cho thụ nhân được ơn bình an, sức khỏe, sự kiên trì, đối thoại và tương trợ – nhưng cũng xin ban ánh sáng và sức mạnh của Chúa để họ có thể hoàn thành được thánh ý Chúa trọn vẹn.’

Tuyên ngôn còn nói rằng: ‘Những hình thức chúc lành này diễn tả một lời cầu khẩn xin Thiên Chúa ban cho những ơn trợ giúp từ sự thúc đẩy của Thánh Thần Người – điều mà thần học cổ điển gọi là ơn ‘hiện sủng’ (actual grace) – để các mối quan hệ giữa con người có thể trưởng thành và phát triển trung thành với Tin Mừng, để họ được giải thoát khỏi những bất toàn và yếu đuối của mình, và để họ có thể thể hiện mình ngày càng có tình yêu Thiên Chúa nhiều hơn.’

Có phải những đoạn văn đó muốn nói lí do chính để ban phép lành như thế là cặp vợ chồng ở trong ‘tình trạng bất thường’ phải cố gắng sống phù hợp với giáo huấn luân lí và đạo lí của Hội thánh hay không?

Những loại phúc lành này đơn thuần chỉ là những kênh mục vụ đơn giản giúp thể hiện đức tin của mọi người, ngay cả khi những người đó là những tội nhân nặng nề.

Vì vậy, qua việc ban phép lành này cho hai người tự nguyện đến cầu xin, người ta có thể cầu xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, thịnh vượng một cách hợp pháp – những điều mà tất cả chúng ta, là tội nhân nhẹ hay nặng, đều có thể cầu xin.

Đồng thời, người ta có thể nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày của hai người này, không phải mọi thứ đều là tội lỗi, nên chúng ta có thể cầu xin cho họ được tinh thần đối thoại, kiên nhẫn, giúp đỡ lẫn nhau.

Nhưng tuyên ngôn cũng đề cập đến lời cầu xin Thánh Thần Chúa ban ơn trợ giúp để họ sống mối quan hệ này (thường không được linh mục biết đến) được thanh luyện khỏi mọi điều bất chính không hợp với Tin Mừng và ý muốn của Thiên Chúa, và có thể lớn lên mỗi ngày theo ý định của Thiên Chúa.

Như tôi đã nói, đôi khi vị linh mục đang đi hành hương không biết đôi bạn đó, và đôi khi họ là hai người bạn rất thân chia sẻ những điều tốt đẹp, đôi khi họ có lỡ lầm quan hệ tình dục trong quá khứ và bây giờ điều còn lại là tình cảm thân thiết mạnh mẽ, và tương trợ nhau. Là một cha xứ, tôi thường gặp những cặp như vậy, đôi khi họ rất gương mẫu.

Vì vậy, đây không phải là vấn đề về bí tích giải tội (!), mà là một lời ban phép lành đơn giản, nhưng đòi hỏi tình bạn này phải được thanh luyện, trưởng thành và được sống trung thành với Phúc âm. Và ngay cả khi giả thiết họ có quan hệ tình dục nào đó, người ta có biết hay không biết, thì lời chúc lành này cũng không chứng thực hay biện chính cho bất cứ điều gì.

Trên thực tế, điều tương tự cũng xảy ra bất cứ khi nào có ai đó đến xin linh mục chúc lành, cá nhân đó (không phải xin giải tội) có thể là một người tội lỗi nặng nề, chúng ta không thể từ chối ban phép lành cho họ.

Nhưng rõ ràng chúng ta phải xác tín hơn nữa rằng các phép lành không-nghi-thức này không phải là sự thánh hiến con người, phép lành không phải một việc biện chính cho mọi hành động của người đó, không phải là sự chuẩn nhận lối sống hiện tại của người đó. Không. Không. Tôi không biết tại sao chúng ta lại đề cao hành động mục vụ đơn giản này đến mức xem nó ngang hàng với việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Đó là lí do tại sao chúng ta hay đặt ra thật nhiều điều kiện để được chúc lành.

3. Tuyên bố nói rằng ‘ngoài hướng dẫn’ được cung cấp, ‘mọi người không nên mong đợi sẽ có thêm những trả lời qui định chi tiết hoặc để thực hành liên quan đến chúc lành kiểu này.’

Điều đó có nghĩa là sẽ không có bất kì phản hồi hay khiển trách nào đối với các hội đồng giám mục hoặc giáo phận tìm cách điều chỉnh và nghi thức hóa các chúc lành này – hoặc đối với những người tìm cách cấm đoán chúng hoàn toàn?

Không, điều đó muốn nói là người ta không nên mong đợi một cuốn kim chỉ nam, một vademecum hoặc một hướng dẫn cho một việc quá đơn giản như vậy.

Tôi biết ở một số giáo phận, giám mục trước đây đã đưa ra những hướng dẫn cho những trường hợp này. Chẳng hạn, một số người đã chỉ dẫn các linh mục rằng trường hợp khi một cặp nổi tiếng ở địa phương hoặc trường hợp có thể có tai tiếng, thì chỉ nên chúc lành ở nơi kín đáo riêng tư. Nhưng tuyên ngôn này không muốn đi vào chi tiết hoặc thay thế sự phân định của các giám mục địa phương.

Mặt khác, để cố gắng giải thích câu hỏi của bạn, chúng tôi hiện đang thảo luận những vấn đề này với các chủ tịch hội đồng giám mục và với các nhóm giám mục đến thăm thánh bộ. Một nhóm các bộ trưởng thánh bộ sẽ sớm bắt đầu hành trình hoán cải và đào sâu hơn với các giám mục Đức và chúng tôi sẽ đưa ra tất cả những giải thích rõ ràng cần thiết.

Hơn nữa, tôi đang lên kế hoạch cho một chuyến đi đến Đức để có một số cuộc nói chuyện mà tôi tin là quan trọng.

4. Tuyên ngôn kêu gọi các linh mục có phân định ‘thực tế’ và ‘khôn ngoan và như một hiền phụ’ để ban những phép lành này.

Phải chăng cách tiếp cận tùy sự phân định của linh mục như thế sẽ làm giảm thẩm quyền của các giám mục trong việc cai quản giáo phận của họ, theo như giáo hội học của Công đồng Vaticanô II – vốn đặc biệt nhấn mạnh đến thẩm quyền của giám mục giáo phận?

Phải chăng một số giám mục đã cấm các linh mục ban những phép lành kiểu này trong địa phận của họ có mâu thuẫn trực tiếp với tuyên ngôn không?

Mỗi giám mục địa phương, với sứ vụ (munus) riêng của mình, luôn có chức trách phân định tại địa phương, sở tại của mình (in loco), ở đó một nơi rất cụ thể mà ngài biết rõ hơn ai khác, vì đó là đàn chiên của ngài.

Chúng tôi không nói đến các hội đồng [giám mục] cấp quốc gia, và càng không nói đến các liên hội đồng giám mục cấp châu lục, bởi vì họ không thể áp đặt mọi sự đối với các giám mục trong mỗi giáo phận của các ngài. Ngay cả khi hội đồng hay liên hội đồng có thể có tiêu chuẩn thống nhất, họ cũng không thể thay thế được vị trí độc nhất của vị giám mục của Giáo hội địa phương của ngài.

Nhưng chúng ta đang ở trong Giáo hội Công giáo, và ở đó Tin Mừng cho chúng ta thấy vai trò của Phêrô.

Rõ ràng, khi có một văn bản được Đức giáo hoàng kí, để giải thích nó một cách rộng rãi, trước tiên các giám mục phải nghiên cứu nó một cách sâu sắc và không vội vàng, đồng thời để cho mình được soi sáng và làm phong phú bởi văn bản đó. Do đó, với sự thận trọng khôn ngoan và chú ý đến văn hóa địa phương có thể đi đến chấp nhận những cách thức áp dụng khác nhau, nhưng không thể phủ nhận hoàn toàn bước này yêu cầu đối với các linh mục.

Tôi rất hiểu mối bận tâm của các giám mục ở một số quốc gia châu Phi hoặc châu Á, ở những nơi mà người đồng tính có thể bị bỏ tù. Đó là một sự xúc phạm tới phẩm giá con người, hẳn là làm các giám mục đau lòng và thách thức tư cách hiền phụ của họ. Có vẻ như các giám mục không muốn đẩy những người đồng tính vào hoàn cảnh bạo lực. Các ngài muốn đề cập đến “luật pháp” của đất nước các ngài.

Điều quan trọng là các hội đồng giám mục này không chủ trương một đạo lí khác với tuyên bố được Đức Thánh Cha kí, bởi vì đó luôn là đạo lí chung, đúng hơn họ nêu lên sự cần thiết phải nghiên cứu và phân định, để có hành động mục vụ khôn ngoan trong bối cảnh này.

Tôi không thể nói nhiều hơn thế vì tôi nhận ra rằng việc đón nhận tài liệu này đòi hỏi thời gian cũng như một sự suy tư thanh thản và dài lâu.

5. Một cách giải thích đã được đưa ra cho tuyên ngôn là các phúc lành sẽ được truyền cho mọi người chứ không phải cho sự kết hợp cụ thể của họ. Tuy nhiên, tài liệu nói rõ ràng ở phần thứ ba về việc chúc lành cho ‘các cặp đôi’.

Phải chăng điều này hàm ý rằng sự kết hợp ‘bất thường’ của những người này đang được chúc lành?

Cần phải phân biệt rõ ràng, và lời tuyên ngôn đã nói sự phân biệt này. Các cặp đôi được chúc lành. Chứ không chúc lành cho sự kết hợp của họ. Tuyên ngôn đã liên tục giải thích về ý nghĩa thực sự của hôn nhân Kitô giáo và quan hệ tình dục.

Đối với những người đọc văn bản một cách thanh thản và không thành kiến ý thức hệ, rõ ràng là không có sự thay đổi nào trong đạo lí về hôn nhân và về sự đánh giá khách quan các hành vi tính dục ngoài hôn nhân duy nhất (hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, không thể xóa nhòa khác biệt giới tính, mở ra tự nhiên cho truyền sinh).

Nhưng điều này không ngăn cản chúng ta làm một cử chỉ hiền phụ và gần gũi, nếu không chúng ta có thể trở thành những quan tòa chỉ biết kết án từ bệ thờ – khi chúng ta là những người thánh hiến mà tự hạ thấp tư cách Hội thánh mình, chúng ta đã gây ra gương xấu nghiêm trọng cho những người đơn sơ bằng chính thái độ của mình.

Ngoài ra, tất cả chúng ta đều có những lỗi lầm riêng, chúng ta đã không sống hoàn toàn phù hợp với Tin Mừng, và những xét đoán thô thiển của chúng ta có khi không nhớ rằng chúng ta cũng sẽ chịu cùng những xét đoán như thế (sẽ được đong bằng một đấu với lượng như thế). Tôi muốn lên thiên đàng và được hạnh phúc đời đời với Chúa, hãy cố gắng đừng quên lời cảnh báo này của Chúa Giêsu Kitô.

ĐGM. Louis Nguyễn Anh Tuấn dịch